Hoàng Dũng
Thành viên cấp 1

GD&TĐ - Để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ đi du học, điều quan trọng không chỉ ở chế độ đãi ngộ mà điều kiện, môi trường làm việc cùng những chính sách thuận lợi cho việc phát triển chuyên môn đóng vai trò quyết định.
Dư luận cho rằng, rất khó để giữ chân được giảng viên trẻ, nhất là những người tìm được học bổng du học ở nước ngoài. Tuy nhiên nhiều cơ sở giáo dục đã giải quyết tốt bài toán này.
1. GS.TS Trần Văn Nam - Giám đốc ĐH Đà Nẵng, kể về lời khuyên của người thầy là giáo sư người Nhật Bản mà theo ông là “có tính chất bước ngoặt” của cuộc đời mình với một thái độ rất trân trọng.
“Những năm đầu thập niên 1990, sau khi hoàn thành chương trình học tập của mình với đánh giá xuất sắc, tôi được một số công ty, viện nghiên cứu mời làm việc tại Nhật Bản. Một ngày trước khi tôi rời Phòng nghiên cứu, thầy gọi tôi lên và nói rằng đã nhận được thông tin về việc tôi sẽ chuyển lên làm việc cho một hãng sản xuất máy nông nghiệp của Nhật.
Thầy nói rằng, thầy đã gửi những nhận xét và đánh giá rất cao về năng lực chuyên môn, ý thức kỷ luật và sự tận tụy trong công việc của em. Tuy nhiên, trước khi em đi tôi có 3 điều muốn nói.
Thứ nhất, chính phủ Nhật cấp học bổng cho em là để đào tạo giảng viên cho Việt Nam, mục đích là giúp Việt Nam có được đội ngũ giảng viên giỏi để phát triển, để truyền đạt lại cho thế hệ trẻ chứ không phải đào tạo để phục vụ nước Nhật. Việt Nam cần em hơn là Nhật Bản cần và nếu ở lại làm việc thì em đã làm sai với cam kết ban đầu.
Thứ hai, nếu em về Việt Nam thì em sẽ là đối tác hợp tác sau này của đại học chúng tôi, em có thể góp sức mình để phát triển Việt Nam.
Trong trường hợp em ở lại Nhật thì rất khó để có thể trở thành một công dân Nhật thực thụ, nguồn gốc của mình là điều vô cùng quan trọng, nhất là khi về già.
Thứ ba, nếu em về Việt Nam, hãy mang những điều tốt ở đây để áp dụng vào Việt Nam chứ đừng để những điều chưa tốt ở Việt Nam làm ảnh hưởng, mất đi những điều tốt đẹp mà em học được.
Mình phải kiên trì theo đuổi, thực thi những điều tốt đẹp để dần dần làm thay đổi môi trường xung quanh chứ đừng để cái chưa tốt của môi trường làm biến đổi bản thân. Nhất là trong khoa học, khoa học là chân lý, chỉ có một chân lý đúng, trong khoa học không có chỗ cho sự khoan nhượng, dối trá và cẩu thả. Sáng hôm sau, tôi quyết định hủy việc làm đã xin được để về Việt Nam dù mức lương tôi sẽ nhận thấp hơn nhiều chục lần.
Đến bây giờ, những điều thầy nói đã đúng. Tôi thấy quyết định của mình lúc đó thật là sáng suốt. Tôi đã là đối tác hợp tác với thầy, với đồng nghiệp của thầy và quan hệ hợp tác này đã góp phần thúc đẩy hoạt động đào tạo, nghiên cứu tại trường và giúp ích được cho rất nhiều các bạn trẻ”.
2. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Phương - Trưởng phòng Tổ chức cán bộ Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, trong khoảng 10 năm trở lại đây nhà trường có trên 80 tiến sĩ đi học ở nước ngoài về công tác tại trường. Hiện nhiều tiến sĩ trẻ của trường đang nắm giữ nhiều vị trí quan trọng tại đơn vị.
Điển hình như trường hợp của Tiến sĩ Nguyễn Bá Hải nhận học bổng thạc sĩ Hàn Quốc học chuyên ngành biorobotics (robot sinh học). Hai năm cần cù học tập, Bá Hải lấy được 3 bằng sáng chế được chuyển giao cho các công ty tại Hàn Quốc cùng luận văn tốt nghiệp xuất sắc, Hải được cấp tiếp học bổng tiến sĩ.
Dù đa số các nghiên cứu sinh tại Hàn Quốc thường phải kéo dài từ ba đến bốn năm trở lên, nhưng Bá Hải lại lập một thành tích đặc biệt – báo cáo thành công luận văn tốt nghiệp chỉ sau 2 năm làm nghiên cứu sinh ở tuổi 27 và ngay sau đó nhận được chứng nhận: Bằng tiến sĩ hay nhất trong năm của trường (the best dissertation). Ở thời điểm tốt nghiệp, được giáo sư đề xuất ở lại Hàn Quốc làm việc với mức lương khoảng 5.000 USD/tháng tại Viện nghiên cứu quốc gia hàng đầu về ô tô (KATECH) của Hàn Quốc. Anh từ chối và trở về lại Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM ngay sau ngày bảo vệ luận văn để bắt đầu một hành trình mới.
PGS.TS Nguyễn Thanh Bình (Trưởng khoa CNTT - Trường ĐH Bách khoa, ĐH Đà Nẵng) trở thành giảng viên của trường sau khi đã hoàn thành luận án Tiến sĩ tại Pháp. Năm 2004, anh quyết định quay trở về Việt Nam lúc “vợ mình đã hoàn thành xong thạc sĩ, đang có việc làm ổn định tại Pháp, bản thân mình cũng đã có một số lời mời ở lại làm việc, đứa con đầu của mình lúc ấy mới chỉ 4 tháng tuổi và đặc biệt là nếu về nước, hai vợ chồng sẽ phải xin việc lại từ đầu” - PGS.TS Nguyễn Thanh Bình cho biết.
Giải thích về lý do quay trở về Việt Nam, TS Bình tâm sự: “Mình có một thời gian tương đối dài ở nước ngoài nên nhận thấy sự khác biệt về văn hóa là rất lớn. Đúng là chất lượng cuộc sống, các chế độ an sinh xã hội rất tốt, con cái mình sẽ được thụ hưởng một nền giáo dục tiên tiến.
Mình cũng có nhiều bạn bè làm việc và sinh sống ở nước ngoài, con cái họ có thể nghe tiếng mẹ đẻ rất tốt nhưng nói thì rất hạn chế, thậm chí là không nói được. Xét về mặt toàn cầu thì chuyện đó là bình thường, nhưng về mặt văn hóa, nguồn cội, theo mình là không hề bình thường”.
Cũng chọn con đường trở về nước làm giảng viên sau khi đã có 18 tháng làm trợ giảng tại một trường ĐH ở Pháp. “Lúc đầu, tôi chưa có ý định sẽ trở thành giảng viên, nhưng quá trình du học, mình nhận được rất nhiều sự hỗ trợ của các thầy cô. Trở về nước làm giảng viên, cũng là cách để tôi tri ân những gì tốt đẹp mà mình từng nhận được bởi sẽ có điều kiện để hỗ trợ những thế hệ sau thông qua con đường giáo dục”, TS Nguyễn Hữu Hiếu - Trưởng khoa Điện, Trường ĐH Bách khoa, ĐH Đà Nẵng kể.
Lý do quan trọng nhất để PGS.TS Nguyễn Thanh Bình, từ chối lời mời của nhiều doanh nghiệp khi trở về nước là bởi “Mình muốn làm việc trong môi trường NCKH bởi chọn con đường làm tiến sĩ là học cách nghiên cứu, mà nếu đi làm doanh nghiệp hay tổ chức hành chính thì sẽ rất khó phát huy được”.
Thay vì chọn đi làm ở các doanh nghiệp bên ngoài, những người đầu quân cho giáo dục đại học đều cùng chung suy nghĩ rằng mình chọn con đường nghiên cứu chuyên sâu nên đây là môi trường phù hợp, không lãng phí thời gian đào tạo, và quan trọng hơn cả, họ thấy công việc của mình có ý nghĩa hơn.
Theo PGS.TS Nguyễn Thanh Bình, trong số 35 cán bộ ở khoa của anh, có 12 tiến sĩ học ở nước ngoài về, 1 tiến sĩ học ở trong nước và 5 người đang làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài, 5 người đang làm ở trong nước. “Có nhiều giảng viên nhận được lời mời của các doanh nghiệp với mức lương rất cao, vài chục triệu một tháng, nhưng họ vẫn ở lại trường công tác” - TS Bình cho biết.
3. Trong khoảng 15 năm qua Đại học Đà Nẵng có khoảng trên 800 giảng viên đi học sau đại học ở nước ngoài, trong đó chủ yếu vẫn là theo học bổng của các nước và 249 người theo các đề án của Nhà nước.
Trong đó đã về lại ĐH Đà Nẵng: 59 Tiến sĩ, 1 người bị ốm phải về và không hoàn thành nhiệm vụ, 3 người đang tiếp tục làm NCS năm cuối hoặc đang chờ nhận bằng, chỉ có 1 TS về công tác rồi tự ý quay lại Úc. Số thạc sĩ đã về công tác hoặc đi học tiếp Tiến sĩ 44 người, 1 người xin phép ở lại Hàn Quốc và xin hoàn trả kinh phí đào tạo theo quy định.
Những Tiến sĩ theo đề án 322 về công tác có 1 người làm Giám đốc Phân hiệu, 1 người làm Phó Hiệu trưởng, 15 người là Trưởng, phó các phòng, khoa, bộ môn, 3 người là PGS.
Có thể nói những TS này khi về nước đã đóng góp rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo, NCKH và hợp tác quốc tế của ĐH Đà Nẵng. GS.TS Trần Văn Nam - Giám đốc ĐH Đà Nẵng, cho biết: “Nâng cao chất lượng đội ngũ GV được xem là một trong những giải pháp hiệu quả và bền vững nhất để nâng cao chất lượng giáo dục Đại học. ĐH Đà Nẵng cố gắng tạo điều kiện tối đa để các cán bộ phát huy năng lực của họ như tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế, tham gia các chương trình NCKH, các đề án và tham gia quản lý nếu đáp ứng các yêu cầu.
Các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu đa dạng đã góp phần cán bộ giữ được sự đam mê và yên tâm công tác tại ĐH Đà Nẵng”. Có lẽ đây là một trong những lý do để khoảng 8 năm trở lại đây, ĐH Đà Nẵng đã thu hút gần 40 PGS và Tiến sĩ từ các nơi khác về công tác.
PGS.TS Nguyễn Thanh Bình và TS Nguyễn Hữu Hiếu đều nhận xét rằng, những cán bộ, giảng viên trẻ đều được tạo điều kiện tối đa để phát huy năng lực của họ cũng như tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế, tham gia các chương trình NCKH, các đề án và tham gia quản lý nếu đáp ứng các yêu cầu. Đơn cử như PGS.TS Nguyễn Thanh Bình, chỉ trong hai năm về trường đã là trưởng bộ môn, rồi lần lượt là phó và trưởng khoa CNTT chỉ 6 năm sau đó.
TS Nguyễn Hữu Hiếu, chỉ sau một năm về trường, đã đảm nhiệm chức vụ Phó trưởng khoa Điện, ba năm sau đã được bổ nhiệm là Trưởng khoa.
TS Hiếu tâm sự rất chân tình: “Tôi không nghĩ là mình sớm được bổ nhiệm đến vậy. Chính vì vậy, tôi cũng có phân tích với anh em giảng viên trẻ ở khoa, đây là môi trường rất tốt để thể hiện được năng lực bản thân, nhà trường có các cơ chế hỗ trợ từ NCKH, hợp tác quốc tế như cho phép giảng viên liên kết với đối tác nước ngoài, doanh nghiệp, tổ chức hội thảo…, vấn đề còn lại là anh phải năng động và tích cực”.
Phải tự chủ về tài chính
Trường Đại học Quốc tế - ĐHQG TPHCM là đại học quốc tế đầu tiên của Việt Nam và là đại học công lập đa ngành, đa lĩnh vực. Những năm qua, nhà trường đã thu hút được nhiều giảng viên đi học nước ngoài về công tác tại trường. Theo PGS.TS Hồ Thanh Phong, hiệu trưởng nhà trường, nhờ có tự chủ tài chính mà các chính sách thu hút nguồn lực của Trường ĐH Quốc tế TPHCM thực hiện từ 2008 -2014 đã cải thiện tích cực tỷ lệ sinh viên/giảng viên; gia tăng tính ổn định trong tổ chức giảng dạy; phát triển chương trình đào tạo sau ĐH, các chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH có thứ hạng của Hoa Kỳ, Australia, Anh.
Trong 6 năm (từ 2008-2014), số giảng dạy cơ hữu có trình độ sau ĐH được đào tạo ở nước ngoài của Trường ĐH Quốc tế tăng từ 74 người lên 164 người (năm 2014). Giảng viên cơ hữu là người nước ngoài cũng ngày càng phát triển. Trong đó, tỷ lệ giảng viên có học vị Tiến sĩ trở lên là 60% trên tổng số giảng viên.
PHảI Tự CHủ Về TÀI CHÍNH
Trường Đại học Quốc tế - ĐHQG TPHCM là đại học quốc tế đầu tiên của Việt Nam và là đại học công lập đa ngành, đa lĩnh vực. Những năm qua, nhà trường đã thu hút được nhiều giảng viên đi học nước ngoài về công tác tại trường. Theo PGS.TS Hồ Thanh Phong, hiệu trưởng nhà trường, nhờ có tự chủ tài chính mà các chính sách thu hút nguồn lực của Trường ĐH Quốc tế TPHCM thực hiện từ 2008 -2014 đã cải thiện tích cực tỷ lệ sinh viên/giảng viên; gia tăng tính ổn định trong tổ chức giảng dạy; phát triển chương trình đào tạo sau ĐH, các chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH có thứ hạng của Hoa Kỳ, Australia, Anh.
Trong 6 năm (từ 2008-2014), số giảng dạy cơ hữu có trình độ sau ĐH được đào tạo ở nước ngoài của Trường ĐH Quốc tế tăng từ 74 người lên 164 người (năm 2014). Giảng viên cơ hữu là người nước ngoài cũng ngày càng phát triển. Trong đó, tỷ lệ giảng viên có học vị Tiến sĩ trở lên là 60% trên tổng số giảng viên.
PHảI Tự CHủ Về TÀI CHÍNH
Trường Đại học Quốc tế - ĐHQG TPHCM là đại học quốc tế đầu tiên của Việt Nam và là đại học công lập đa ngành, đa lĩnh vực. Những năm qua, nhà trường đã thu hút được nhiều giảng viên đi học nước ngoài về công tác tại trường. Theo PGS.TS Hồ Thanh Phong, hiệu trưởng nhà trường, nhờ có tự chủ tài chính mà các chính sách thu hút nguồn lực của Trường ĐH Quốc tế TPHCM thực hiện từ 2008 -2014 đã cải thiện tích cực tỷ lệ sinh viên/giảng viên; gia tăng tính ổn định trong tổ chức giảng dạy; phát triển chương trình đào tạo sau ĐH, các chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH có thứ hạng của Hoa Kỳ, Australia, Anh.
Trong 6 năm (từ 2008-2014), số giảng dạy cơ hữu có trình độ sau ĐH được đào tạo ở nước ngoài của Trường ĐH Quốc tế tăng từ 74 người lên 164 người (năm 2014). Giảng viên cơ hữu là người nước ngoài cũng ngày càng phát triển. Trong đó, tỷ lệ giảng viên có học vị Tiến sĩ trở lên là 60% trên tổng số giảng viên.
PHảI Tự CHủ Về TÀI CHÍNH
Trường Đại học Quốc tế - ĐHQG TPHCM là đại học quốc tế đầu tiên của Việt Nam và là đại học công lập đa ngành, đa lĩnh vực. Những năm qua, nhà trường đã thu hút được nhiều giảng viên đi học nước ngoài về công tác tại trường. Theo PGS.TS Hồ Thanh Phong, hiệu trưởng nhà trường, nhờ có tự chủ tài chính mà các chính sách thu hút nguồn lực của Trường ĐH Quốc tế TPHCM thực hiện từ 2008 -2014 đã cải thiện tích cực tỷ lệ sinh viên/giảng viên; gia tăng tính ổn định trong tổ chức giảng dạy; phát triển chương trình đào tạo sau ĐH, các chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH có thứ hạng của Hoa Kỳ, Australia, Anh.
Trong 6 năm (từ 2008-2014), số giảng dạy cơ hữu có trình độ sau ĐH được đào tạo ở nước ngoài của Trường ĐH Quốc tế tăng từ 74 người lên 164 người (năm 2014). Giảng viên cơ hữu là người nước ngoài cũng ngày càng phát triển. Trong đó, tỷ lệ giảng viên có học vị Tiến sĩ trở lên là 60% trên tổng số giảng viên
Theo: giaoducthoidai.vn